Một
vị Thiếu tướng có nhân cách và bản lĩnh đã chỉ được
đến gần “cái tổ chuồn chuồn”. Nhưng đến chỗ ấy
thì phải dừng lại. Không riêng gì vị ấy. Một khi đã
liều lĩnh vượt qua giới hạn đó thì, không chỉ nguy
hiểm thôi đâu, nhiều câu hỏi sẽ phơi ngay trước mắt
khiến cái đầu có thể nổ tung. Chẳng hạn, chỉ một
câu đầu tiên: 20 năm xin xỏ “ông anh” cung cấp súng
ống đánh chiếm cho được miền Nam để giành lại cái
gì và cho ai, nếu chẳng là nồi da xáo thịt, vì miền
Nam có nằm trong tay nước ngoài đâu? Trong khi đã thừa
biết chỉ một mình “ông anh” nham hiểm ấy mới nhăm
nhăm đánh thọc vào lưng và ngoạm một miếng đủ làm
cho cơ thể mình đứt làm hai nửa. Vậy đó là lòng tham
không kiềm chế (tham như CS), hay sự mê muội ý thức hệ?
Bauxite
Việt Nam
Thiếu
tướng Lê Mã Lương khẳng định, việc Trung Quốc cưỡng
chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là hành
vi xâm phạm thô bạo vào chủ quyền lãnh thổ của Việt
Nam nên dù bất cứ giá nào, Việt Nam vẫn kiên trì thực
hiện cuộc đấu tranh để giành lại.
44
năm trước, ngày 19/1/1974, Trung Quốc nổ súng tấn công
và chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam.
VTC
News đã có cuộc phỏng vấn Thiếu tướng Lê Mã
Lương, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, nguyên Giám
đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, để cùng
nhìn nhận, đánh giá lại sự kiện này cũng như những
bài học lịch sử mà Việt Nam rút ra.
“Âm
mưu thâm độc từ lâu”
- Là
một tướng lĩnh quân đội và cũng là một người nghiên
cứu về lịch sử, ông đánh giá thế nào về sự kiện
ngày 19/1/1974, ngày mà quân đội Trung Quốc đã tấn công
và chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam khi đó
đang do chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) quản lý?
Rõ
ràng đây là một sự kiện rất đáng buồn. Buồn vì
chúng ta để mất phần lãnh thổ của mình. Nếu như khi
đó chúng ta thể hiện được sự tỉnh táo và quyết
đoán thì nó sẽ không xảy ra sự mất mát rất lớn ấy.
Thiếu tướng Lê Mã Lương: "Lợi ích quốc gia dân tộc là lợi ích cốt lõi, là lợi ích số một. Nếu không nghĩ đến lợi ích quốc gia, dân tộc thì mình còn bị ảnh hưởng, còn bị thiệt thòi, mất mát rất nhiều trong một số mối quan hệ quốc tế".
Trước
hết, phải nói sự kiện ngày 19/1/1974 là nằm trong một
chuỗi sự kiện trong âm mưu của Trung Quốc chứ không
phải là hành động đơn lẻ. Đây là mưu đồ thâm hiểm
của Trung Quốc đã có từ rất lâu rồi. Âm mưu này đã
có từ những năm 50 của thế kỷ trước và đây là một
ý đồ nhất quán và lâu dài.
Phải
nói đó là một vấn đề nằm trong chiến lược bành
trướng của Trung Quốc, họ muốn khống chế ta, khống
chế Biển Đông. Do đó, đây không phải là sự ngẫu
nhiên hoặc tranh thủ lúc ta đang đánh nhau để họ làm
cái việc đã rồi theo kiểu “thừa nước đục thả
câu” như thế.
Trung
Quốc đã có âm mưu từ lâu, tư tưởng của họ là nhất
quán. Sự nhất quán đó đã có tới cả nửa thế kỷ
rồi chứ không phải là mới hình thành đâu.
Nếu
nhìn lại các sự kiện lịch sử, chúng ta sẽ thấy ngay
từ năm 1946, khi ta đang phải đương đầu với sự xâm
lược trở lại của thực dân Pháp thì lúc này Trung Quốc
(thời Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch) đã
tranh thủ chiếm luôn đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo
Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa).
Lần
thứ hai vào năm 1956, Trung Quốc chiếm gần như toàn bộ
phần phía đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1959,
lần thứ ba Trung Quốc mang quân chiếm nốt phần phía tây
của quần đảo Hoàng Sa.
Lần
thứ tư là năm 1974, lợi dụng tình thế Mỹ rút hạm đội
7 ra khỏi vùng biển của Việt Nam thì phía Trung Quốc
mang quân tấn công phần phía tây quần đảo Hoàng Sa.
Ngày
14/3/1988, lúc ấy quân đội chúng ta vẫn đang làm nhiệm
vụ thời chiến ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. Trung
Quốc đã đưa quân vào chiếm đảo Gạc Ma ở quần đảo
Trường Sa.
Vì
vậy cho nên khi nhận xét đánh giá về vấn đề này thì
phải thấy được nguyên nhân sâu xa của nó.
Trong
sự kiện Trung Quốc tấn công và chiếm đóng trái phép
đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 và sau này là sự
kiện Trung Quốc tấn công chiếm đóng trái phép đảo Gạc
Ma của Việt Nam năm 1988 cho thấy chúng ta đã sơ suất,
thiếu sự đề phòng.
“Sai
lầm nghiêm trọng về chiến thuật”
-
Sau này, Đại tá phi công Nguyễn Thành Trung tiết lộ
rằng, việc để mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc năm 1974
còn có trách nhiệm của phía chính quyền VNCH khi đó đã
thiếu quyết đoán. Bởi theo Đại tá Trung, khi đó VNCH
vẫn có thể điều không quân từ Đà Nẵng ra chiến đấu
đề giành lại đảo. Ý kiến của ông về vấn đề này
như thế nào?
Việc
không cho máy bay từ Đà Nẵng bay ra Hoàng Sa để tác
chiến là một sai lầm nghiêm trọng về mặt chiến thuật
khi đó của chính quyền VNCH. Phải nói là để mất Hoàng
Sa là một sai lầm có tính lịch sử.
Bởi
vì lúc cần sự cố gắng để giữ cho được lãnh thổ,
lãnh hải của mình thì lại không dám quyết đoán để
đưa ra những quyết định đúng đắn. Nếu mà quyết
đoán thì chúng ta không bị mất Hoàng Sa vào tay Trung
Quốc.
Khi
ấy, quân đội Trung Quốc chỉ có MiG-21 và họ không thể
bay nổi từ lục địa để ra Hoàng Sa tác chiến, kể cả
khi máy bay MiG-21 của Trung Quốc có xuất phát từ đảo
Hải Nam để bay ra Hoàng Sa thì cũng không có đủ nhiên
liệu để về và sẽ rơi xuống biển.
Không
chỉ chính quyền VNCH mà chính quyền Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa khi đó cũng có những sơ suất. Sơ suất đó là
chúng ta vì hoàn cảnh khách quan, vì quá mải mê cho công
cuộc chiến đấu để giải phóng miền Nam và thêm vào
đó cũng có lúc chúng ta quá tin bạn bè, gửi gắm vào
bạn bè mà không thấy được đằng sau là “ông bạn
lớn” đã có một ý đồ rất lớn và thâm hiểm như
thế.
Vì
thế cho nên khi sự việc xảy ra thì chúng ta bị những
bất ngờ. Nếu khi đó ta không chủ quan, đừng quá tin
tưởng vào Trung Quốc, ta tìm hiểu tư tưởng chiến lược
của Trung Quốc thì ta sẽ có những ứng phó phù hợp
hơn.
Tàu cá có vũ trang của Trung Quốc khiêu khích chiến hạm của hải quân VNCH ở Hoàng Sa tháng 1/1974. Ảnh tư liệu.
Nếu
ta không chủ quan, thì khi đó quân đội nhân dân Việt
Nam có thể bằng mọi giá sẽ chọn được thời cơ thích
hợp, chỉ cần khoảng một tuần lễ là có thể lấy lại
Hoàng Sa. Tỉnh táo thì không đến mức như vậy.
Nên
có thể nói, việc để mất quần đảo Hoàng Sa là
do Việt Nam khi đó chủ quan và dễ tin Trung Quốc.
“Có
lỗi với tiền nhân”
-
Trong một số hội thảo về lịch sử, về Biển Đông
cũng như trả lời trên báo chí, Thiếu tướng nói sự
kiện để mất Hoàng Sa và sau này là một số đảo ở
Trường Sa vào tay quân Trung Quốc đã khiến những người
lính như ông khi đó và cả về sau này luôn cảm thấy
“có lỗi với tiền nhân”...
Không
phải bây giờ, mà ngay từ hàng chục năm trước, tôi
cũng đã có dự cảm về vấn đề Biển Đông sẽ là vấn
đề mà Trung Quốc không dễ “buông tha” rồi.
Sau
này, anh Nguyễn Thành Trung cho biết tại thời điểm năm
1974, nếu như phía chính quyền VNCH cho phép máy bay từ Đà
Nẵng bay ra Hoàng Sa để phản công thì vẫn có thể giữ
hoặc chiếm lại được đảo. Tôi tin điều đó.
Không
chỉ sự kiện ở Hoàng Sa năm 1974 mà ngay cả sự
kiện Trung Quốc tấn công đảo Gạc Ma của Việt Nam năm
1988, nếu chúng ta quyết đoán thì khi đó vẫn có thể
giữ được đảo.
Vì
khi đó máy bay của chúng ta đã có thể bay ra để ứng
cứu và tác chiến rồi. Thậm chí, có đồng chí phi công
thời đó sau này còn nó với tôi là chỉ việc cho máy
bay bay ra đảo, đơn giản chỉ cần bay thẳng thôi, không
cần bỏ bom thì quân chiếm đóng của Trung Quốc khi đó
đã sợ “thần hồn nát thần tính” rồi, vì khi đó
quân đội Trung Quốc trang bị lạc hậu, không có gì là
hiện đại và thiện chiến cả.
Thế
nhưng, chúng ta đã không làm được điều đó. Ở đây
cũng phải thấy là nó cũng có yếu tố lịch sử. Lúc
bấy giờ là Liên Xô đang ở ngưỡng của sự suy yếu,
khủng hoảng, và bắt đầu “kiềng” Mỹ và cả Trung
Quốc. Nên sự ủng hộ của Liên Xô khi đó là không có.
Chính
điều ấy đã tác động đến tư duy của những lãnh đạo
của ta khi đó, phải chịu những sức ép lớn khi đưa ra
quyết định.
Lịch
sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại
xâm để dựng nước và giữ nước, chúng ta đã từng hy
sinh máu xương thậm chí còn nhiều hơn thế để giữ
nước mà chúng ta vẫn phải chấp nhận, 21 năm kiên trì
chiến đấu chống Mỹ cứu nước thì thêm sự hy sinh nữa
để giữ biển, giữ đảo tại sao lại không thể làm?
Tại sao khi cần có sự sáng suốt để quyết định một
việc liên quan đến quốc gia, lãnh thổ mà chúng ta không
làm được?
Cho
nên đến tận bây giờ, thế hệ những người lính chúng
tôi cảm thấy rất có lỗi với tiền nhân. Các bậc tiền
nhân đã giữ được biển đảo, song cuối cùng chúng ta
chỉ vì thiếu một quyết đoán sáng suốt mà đã để
cho phần đất đảo của mình rơi vào tay đối phương.
Phải
kiên trì đấu tranh để đòi lại chủ quyền biển đảo
-
Việt Nam cần phải làm gì để giành lại chủ quyền
biển, đảo mà Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép, thưa
ông?
Hoàng
Sa là của Việt Nam, điều này không thể phủ định,
chối cãi. Chủ quyền đó không chỉ được khẳng định,
xác nhận bằng máu xương của người Việt mà còn được
xác nhận bằng rất nhiều tư liệu, sử liệu của cả
sử sách nước ta từ thời nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn lẫn
tư liệu của phương Tây, của người Pháp ghi chép lại.
Việc
Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa và sau này là cưỡng
chiếm đảo Gạc Ma năm 1988 là việc làm phi phạm, xâm
phạm thô bạo vào chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Đây là hành vi phải
lên án mạnh mẽ và không thể biện minh dù bằng bất cứ
lý do nào.
Việc
Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa và sau này là cưỡng
chiếm đảo Gạc Ma năm 1988 là việc làm phi phạm, xâm
phạm thô bạo vào chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam - Thiếu
tướng Lê Mã Lương
Hiện
nay, chúng ta vẫn đang kiên trì thực hiện chính sách đấu
tranh, chủ yếu trên lĩnh vực ngoại giao để gây sức ép
nhằm đòi lại những đảo mà Trung Quốc đã chiếm của
Việt Nam. Tất nhiên, đây là một cuộc đấu tranh sẽ
còn phức tạp, lâu dài và gian nan, song Việt Nam vẫn phải
làm.
Phải
kiên trì đấu tranh để đòi lại chủ quyền biển đảo.
Nói như đồng chí Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã từng
có lần phát biểu là chúng ta vẫn kiên trì, bởi nếu
đời chúng ta không đòi được thì đời con cháu chúng
ta sau này sẽ đòi lại được.
Qua
đó cho thấy, đây vẫn là một cuộc đấu tranh cam go lẫn
dài lâu, song Việt Nam vẫn phải kiên trì thực hiện.
-
Thưa ông, trong bối cảnh quan hệ quốc tế có nhiều diễn
biến phức tạp như hiện nay, từ sự kiện đã xảy ra
trong quá khứ như đã nói ở trên, chúng ta rút ra bài học
cốt tử gì?
Thứ
nhất, vấn đề cốt tử ở đây chính là Việt Nam cần
phải luôn luôn tỉnh táo và sáng suốt để giữ vững
chủ quyền của dân tộc, của đất nước mình. Cụ thể
ở đây là Đảng và những nhà lãnh đạo, những người
đưa ra những chiến lược, sách lược có liên quan trực
tiếp đến vận mệnh của cả quốc gia, dân tộc.
Thứ
hai là trong quan hệ quốc tế, bất cứ hoàn cảnh nào
cũng phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc mình lên trên
hết. Phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc mình làm
trọng, là tiêu chí đầu tiên trong mọi mối quan hệ.
Thực
tế trong quan hệ ngoại giao cho thấy đã có rất nhiều
nước khác họ làm như thế rồi, và trong quá khứ, Việt
Nam cũng đã tuân thủ nguyên tắc này.
Lợi
ích quốc gia dân tộc là lợi ích cốt lõi, là lợi ích
số một. Nếu không nghĩ đến lợi ích quốc gia, dân tộc
thì mình còn bị ảnh hưởng, còn bị thiệt thòi, mất
mát rất nhiều trong một số mối quan hệ quốc tế.
Năm
2018 được dự báo tình hình thế giới và khu vực còn
diễn biến rất phức tạp, có những sự kiện sẽ tác
động trực tiếp đến Việt Nam. Bối cảnh đó đòi hỏi
chúng ta càng phải kiên định mục tiêu lợi ích cốt lõi
của mình.
Thứ
ba là, chúng ta cần phải phát huy nội lực của chính
mình, phải nâng cao nội lực của mình lên thì mới có
sức đề kháng trước các âm mưu của ngoại bang, của
thế lực thù địch bên ngoài hòng can thiệp, phá hoại
chúng ta.
Người
Việt cần phải thể hiện được bản sắc của mình
trong các vấn đề quốc tế, cần có sự kiên định và
kiên trì. Nên dù đa phương hóa, đa dạng hóa các mối
quan hệ ngoại giao, song cũng đừng quên đi tự lực cánh
sinh là rất quan trọng, chỉ có tự lực cánh sinh thì
Việt Nam mới đảm bảo được lợi ích cốt lõi và giữ
vững được độc lập, chủ quyền của mình.
-
Xin trân trọng cảm ơn ông.
L.M.L.
Nguồn:
https://vtc.vn/thieu-tuong-le-ma-luong-phai-doi-bang-duoc-hoang-sa-bi-trung-quoc-cuong-chiem-d376353.html